Thứ Hai, 30 tháng 11, 2015

2 làng nghề gây ô nhiễm môi trường

Theo như Quyết định 64 của Thủ tướng Chính phủ, 2 làng nghề ở Thừa Thiên- Huế vẫn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng mặc dù đã quá thời hạn phải xử lý triệt để ô nhiễm.



Gây ô nhiễm nghiêm trọng

Làng nghề gạch ngói Hương Vinh- Hương Toàn (thị xã Hương Trà) và làng nghề đúc đồng Phường Đúc - Thủy Xuân (TP.Huế) là 2 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải xử lý triệt để theo Quyết định 64/2003 của Thủ tướng Chính phủ. Làng nghề gạch ngói này phải di chuyển địa điểm và hoàn thiện công nghệ, thực hiện từ 2003 - 2004 tránh ảnh hưởng đến người dân; đối với làng nghề đúc đồng phải xây dựng hệ thống xử lý chất thải và hiện đại hóa công nghệ sản xuất, thực hiện từ 2003- 2006.

Mặc dù đã quá thời hạn phải xử lý ô nhiễm theo Quyết định 64  nhưng hiện tại, 2 làng nghề trên vẫn nằm trong diện gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Tại làng nghề gạch ngói Hương Vinh - Hương Toàn, nhiều lò gạch thủ công vẫn nhóm lò, nổi lửa để sản xuất.

Việc lò gạch xả khói bụi mù mịt đã khiến nhiều người trong thôn mắc các bệnh da liễu, hô hấp và mắt. Một người dân ở thôn Thủy Phú (xã Hương Vinh) bức xúc: “Đường làng ngõ xóm và nhà dân gần các lò gạch thường chìm trong khói bụi mù mịt. Chúng tôi đã rất nhiều lần kiến nghị tỉnh di dời các lò gạch nhưng hàng chục năm rồi mọi chuyện vẫn vậy” .

Có hơn 60 lò đúc đồng, nhôm, chì nằm xen lẫn trong các khu dân cư ở làng nghề đúc đồng Phường Đúc - Thủy Xuân. Nhiều cơ sở đúc vẫn làm theo lối thủ công, sử dụng cao su và dầu nhớt phế thải để đốt lò nên gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Tình trạng này ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe và cuộc sống của người dân quanh vùng.

Chưa có phương án

Đề giải quyết ô nhiễm môi trường và tạo việc làm cho lao động tại làng nghề gạch ngói Hương Vinh - Hương Toàn, chính quyền thị xã Hương Trà từng xây dựng dự án quy hoạch chi tiết cụm làng nghề gạch ngói, gốm Hương Vinh. Tuy nhiên, dự án này không được Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên- Huế phê duyệt nên đã bãi bỏ. Trong khi đó, chính quyền thị xã Hương Trà lại gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nghề mới cho người dân nên đến nay làng nghề này vẫn tồn tại và “bức tử” môi trường.

Ở làng nghề đúc đồng Phường Đúc - Thủy Xuân, tỉnh Thừa Thiên- Huế đã đưa vào hoạt động mô hình thí điểm xử lý khói, bụi và khí thải độc hại. Mô hình này sử dụng hệ thống máy hút bụi thông qua chụp hút khói, bụi, khí thải bằng inox, đưa vào bể sục khí, kết hợp hoá chất để làm sạch khí thải... Đây là giải pháp đưa lại hiệu quả môi trường khá cao nhưng đến nay chỉ thực hiện được ở một số lò đúc. Nguyên nhân là do mô hình này khá phức tạp về công nghệ, mặt khác hầu hết hộ làm nghề đúc ở đây khó khăn về kinh phí.

Chủ Nhật, 29 tháng 11, 2015

Phạt tiền vì xả rác bừa bãi

Tại nơi công cộng của thị trấn, một số người thiếu ý thức vào ban đêm chở rác đến vứt bừa bãi gây ô nhiễm môi trường, công an đã bố trí mai phục bắt quả tang một phụ nữ vừa quăng túi rác vào lề đường.

Vào chiều ngày 26-11, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn Tân Trụ, ông Nguyễn Văn Thơm vừa ký quyết định xử phạt vi phạm trên lĩnh vực môi trường đối với bà Hồ Thị Cẩm Trinh (SN 1971), ngụ ấp Bình Đông, xã Bình Trinh Đông, huyện Tân Trụ số tiền 350.000 đồng do có hành vi vứt rác nơi công cộnglà nguồn tin từ Ủy ban nhân dân thị trấn Tân Trụ, huyện Tân Trụ (Long An).



Tổ chức mai phục tại những điểm thường được người dân xả rác, công an và môi trường thị trấn bắt quả tang bà Trinh đang chạy xe honda chở túi rác vứt xuống lộ, chưa kịp chạy đi thì bị giữ lại lập biên bản.

Ủy ban nhân dân thị trấn Tân Trụ cho biết, tuyến đường Cao Thị Mai nối liền thị trấn Tân Trụ đi qua xã Bình Trinh Đông, khu vực gần khu dân cư thuộc ấp Tân Bình, thường xuyên bị một số người “vô tư” vứt rác ra lộ vào đêm khuya do không muốn đóng tiền thu gom rác mỗi tháng 12.000 đồng. Vì vậy đoạn đường sạch đẹp nhanh chóng trở thành bãi rác công cộng gây ô nhiễm môi trường.


Mặc dù đã có biển báo cấm đổ rác và thông báo trên đài nhưng việc vi phạm ngày càng nhiều.


Tại khu vực xã Bình Tịnh, một chủ quán nhậu chờ đêm khuya chở rác bỏ ven lộ gần trụ sở Ủy ban nhân dân xã. Qua nhiều ngày mai phục, công an cũng bắt được quả tang và phạt 350.000 đồng.

Thứ Tư, 25 tháng 11, 2015

Trách nhiệm với cộng đồng của doanh nghiệp khai khoán



Hội thảo doanh nghiệp khai khoáng và trách nhiệm xã hội với cộng đồng địa phương  do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI phối hợp Trung tâm Phát triển và Hội nhập - CDI tổ chức, đã diễn ra tại Hà Nội vào sáng 14/11.


Phó Tổng thư ký VCCI - ông Nguyễn Quang Vinh cho biết: không chỉ riêng ngành khai khoáng, mà trong tất cả các ngành, việc thực hiện trách nhiệm doanh nghiệp đối với cộng đồng đem lại rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nào nhận thức được điều đó thì sẽ rất thành công và phát triển bền vững, bởi lẽ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp gắn chặt với năng lực cạnh tranh, vấn đề quản trị khoa học, ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao năng suất… Riêng đối với ngành khai khoáng là ngành có nhiều đặc thù như sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên, liên quan đến cộng đồng như di dời chỗ ở của người dân khi khai mỏ, vấn đề môi trường, trữ lượng mỏ, thuế… nên việc nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và người dân về trách nhiệm của các bên là rất quan trọng.




Liên minh khai khoáng EITI do nguyên Thủ tướng Anh Tony Blair khởi xướng với sự tham gia của 40 quốc gia trên thế giới. Khi tham gia liên minh này, tất cả các bên, từ Chính phủ đến doanh nghiệp và cộng đồng đều ý thức được trách nhiệm của mình trong việc khai thác mỏ và tài nguyên thiên nhiên là một trong những hướng đi hiệu quả của thế giới.




Chủ tịch Hiệp hội Tuyển khoáng Việt Nam - ông Nguyễn Minh Đường đã khẳng định: Bất cứ doanh nghiệp hoạt động tại địa phương không có trách nhiệm cộng đồng với địa phương đó thì không thể tồn tại được. Doanh nghiệp phải có được sự ủng hộ, hợp tác từ chính quyền và đặc biệt là từ cộng đồng địa phương thì mới phát triển bền vững được.




Một số đại diện doanh nghiệp khai thác và sử dụng khoáng sản cũng cho rằng, việc doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội với cộng đồng địa phương là điều bắt buộc nếu muốn doanh nghiệp tồn tại. Ông Lưu Ngọc Anh, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Apatit Việt Nam cho rằng, trong thời gian 60 năm khai thác quặng, Công ty đã thực hiện nhiều hoạt động cùng địa phương, mới đây nhất là chương trình xây dựng nông thôn mới. Công ty cũng đã cam đoan đóng góp 16 tỷ đồng cho ngân sách địa phương trong ngành, giúp xây dựng một số trường học vùng cao. Đối với việc tuyển quặng, Apatit Việt Nam luôn thực đầy đủ trách nhiệm về môi trường đối với địa phương.




Khi đó, ông Nguyễn Văn Châu, Phó Tổng giám đốc Công ty Xi măng Bỉm Sơn cho biết, trên thực tế Bỉm Sơn đã cố gắng và làm được rất nhiều việc cho địa phương, thực hiện đóng thuế, phí đầy đủ. Tuy vậy, khi bàn đến vấn đề trách nhiệm cũng cần tính đến trách nhiệm của địa phương đối với doanh nghiệp bởi doanh nghiệp có rất nhiều vướng mắc liên quan đến địa phương.




Tại Hội thảo, các đại biểu đã được giới thiệu một số văn bản chính sách, pháp luật liên quan đến vấn đề khai thác khoáng sản và cùng thảo luận một số nội dung về: Trách nhiệm xã hội: Các vấn đề đặt ra với doanh nghiệp khai khoáng trong bối cảnh hiện nay và giải pháp; thực trạng việc thực hiện trách nhiệm xã hội trong doanh nghiệp khai khoáng tại Việt Nam; người dân ở đâu trong khai thác khoáng sản? đánh giá tác động của hoạt động khai khoáng tới địa phương; trách nhiệm xã hội doanh nghiệp có là một trong những biện pháp để doanh nghiệp phát triển bền vững hơn và giảm thiểu xung đột xã hội.

Chủ Nhật, 22 tháng 11, 2015

Hàng trăm phương tiện vận tải đang có nguy cơ gây ô nhiễm vịnh Hạ Long

Mục đích nhằm bảo vệ môi trường nước di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long tỉnh Quảng Ninh đã hoàn tất dự lắp đặt thiết bị phân ly dầu nước đến ngày 14/11/2015 và được xem là một động thái tích cực .


Tuy nhiên mặc dù đã cố công đầu tư giảm thiểu ô nhiễm môi trường nhưng hàng ngày vẫn có hàng trăm con tàu vận tải thủy nội địa hay xà lan không lắp đặt thiết bị phân ly dầu - nước vẫn hoạt động ngày đêm, cho nên nguy cơ bị ô nhiễm vẫn còn rất cao.



Nguy cơ ô nhiễm nước Vịnh Hạ Long từ hàng trăm phương tiện vận tải


Nhằm mục đích làm cho các chủ tàu du lịch lắp đặt các thiết bị phân ly dầu nước trên các phương tiện của chính mình, UBND tỉnh Quảng Ninh quyết định sẽ đình chỉ hoạt động hoặc không cấp phép rời bến đối với tàu du lịch trên Vịnh Hạ Long nếu không lắp đặt thiết bị phân ly dầu – nước sau ngày 1/11. Vì vậy, chỉ trong thời gian ngắn, hơn 400 tàu du lịch đã được lắp đặt hệ thống phân ly dầu - nước nhằm bảo vệ môi trường nước Vịnh Hạ Long.


Thế nhưng, chính quyền địa phương lại không thể bắt buộc hàng trăm các phương tiện thủy khác như sà lan, tàu vận tải loại nhỏ đang ngày đêm hoạt động trên Vịnh Hạ Long, nhất là hàng chục chiếc xà lan đang vận chuyển chở cát, đất đá cũng như nguyên, vật liệu xây dựng phục vụ các công trường thi công các dự án trọng điểm bên bờ Vịnh lắp đặt thiết bị này.


Theo thống kê, mỗi tháng có khoảng 54 ngàn lượt phương tiện vận tải thủy hoạt động trên vùng nước Vịnh Hạ Long. Với số lượng và mật độ tàu hoạt động cả ngày lẫn đêm lớn như vậy nên lượng nước thải nhiễm dầu (nước thải la canh) xả ra môi trường là không nhỏ. Đặc biệt, các phương tiệnnhư xà lan vận tải nguyên vật liệu, đất đá phục vụ cho việc san lấp Vịnh Hạ Long hoạt động với tần suất lớn trong ngày trong thời gian gần đây đang là nguy cơ đe dọa trực tiếp đến môi trường nước Vịnh Hạ Long, làm ảnh hưởng trực tiếp đến mỹ quan, hoạt động du lịch biển, gây phản cảm cho du khách. Thực tế này đã gây bất bình trong dư luận, đặc biệt là trong cộng đồng những chủ tàu du lịch vừa lắp đặt hệ thống phân ly dầu - nước. Theo họ, phương tiện vận tải hoạt động trên Vịnh Hạ Longđều như nhau cả, sao chính quyền địa phương chỉ bắt buộc đối với tàu du lịch mà lại không hề có quy định nào cho các phương tiện vận tải thủy khác như xà lan, tàu vận tải, tàu đánh bắt cá… Họ cho rằng, nước xả thải của các phương tiện kể trên còn có nguy cơ gây ô nhiễm tới Vịnh Hạ Longnhiều hơn so với các tàu du lịch, nhất là tàu du lịch hạng sang.


Giám đốc Sở Giao thông Vận tải Quảng Ninh ông Vũ Văn Khánh cho rằng: Do số phương tiệnthủy tham gia giao thông trên Vịnh Hạ Long khá đa dạng, nhiều phương tiện không thuộc diện quản lý của Quảng Ninh mà của các địa phương khác nên rất khó trong công tác quản lý, chưa thể áp dụng quy định bắt buộc lắp đặt hệ thống phân ly dầu – nước (đối với tàu có công suất dưới 220Kw).


Bất cập trên đã được chính quyền và các ngành chức năng của Quảng Ninh nhìn nhận. Dư luận đánh giá cao việc Quảng Ninh yêu cầu các các phương tiện vận tải du lịch lắp đặt thiết bị phân ly dầu - nước để bảo vệ môi trường nước, song người dân cũng mong các ngành chức năng sớm tìm ra giải pháp quản lý tốt hơn việc xả thải nước thải của các phương tiện thủy đang hoạt động trên Vịnh Hạ Long, bảo vệ tốt hơn chất lượng nước của Di sản thiên nhiên thế giới.

Thứ Sáu, 20 tháng 11, 2015

Ủ rác thải thành phân compost



Từ sáng tạo sản xuất phân bón từ rác sinh hoạt đã mang lại cho ông Trần Văn Lía (Ninh Phụng, Ninh Hòa) giải khuyến khích tại Hội thi Sáng tạo kỹ thuật lần thứ VI của tỉnh.





Trăn trở trước tình hình đất sản xuất nông nghiệp ngày càng cằn cỗi, bạc màu do canh tác quá mức; đồng thời, một lượng lớn rác sinh hoạt bị đốt bỏ hoang phí, gây ô nhiễm môi trường, ông Lía đã nghĩ tới chuyện sản xuất phân bón từ rác.

Đầu tiên, ông tạo thói quen cho các hộ gia đình phân loại rác tại nguồn. Những loại rác vô cơ như: kim loại, thủy tinh, gốm sứ... khó phân hủy được thì tách riêng để vận chuyển về bãi rác; rác thực vật như: cây cỏ, lá được gom riêng để ủ làm phân bón. Hộ nào đất chật, diện tích cây trồng ít nên ủ phân trong thùng nhựa 200 lít, không cần dùng hóa chất, thời gian ủ 90 - 120 ngày là có phân sử dụng. Hộ có diện tích rộng, cần lượng phân lớn bón cho cây trồng thì sử dụng bạt ủ thành đống lớn. Cho vôi vào rác thực vật, sau 15 ngày rác bắt đầu phân hủy thì đem ra cho giảm sức nóng và trộn đều với men vi sinh Trichoderma rồi ủ tiếp, chờ 45 - 50 ngày phân tự hoại là có thể dùng được. Cách sản xuất phân bón từ rác đơn giản, dễ làm, hiệu quả cao, khắc phục tình trạng “bón phân chay” (lạm dụng phân vô cơ, ít sử dụng phân hữu cơ làm cho đất ngày càng thoái hóa, bạc màu...) của nông dân.

>>>Xêm thêm: chế phẩm vi sinh xử lý nước thải

Ông Lía cho biết, trước đây ông thường canh tác cây ớt và cà tím, sau vài vụ là thất bại do cách bón phân không hợp lý, sâu bệnh hại phát sinh làm cây èo uột, thiếu sức sống. Từ ngày ủ phân vi sinh từ rác, bón cho cây phát triển tốt, ít sâu bệnh, sức đề kháng cao...

Phó Chủ tịch UBND xã Ninh Phụng – ông Trần Ngọc Thơ chia sẻ, phương pháp của ông Lía được xã triển khai thí điểm tại 30 hộ nông dân thôn Phú Bình (Hội Nông dân tỉnh hỗ trợ 30 thùng đựng) từ tháng 7, cuối tháng 11 sẽ tiến hành tổng kết chương trình. Giải pháp này góp phần hạn chế việc sử dụng vượt mức phân hóa học của nông dân, tạo thói quen cho người dân biết cách phân loại rác, giải quyết lượng rác quá lớn ở nông thôn gây sức ép lên các bãi rác...

Thứ Năm, 19 tháng 11, 2015

Hải sản có vi sinh vẫn có thể ăn được nếu chế biến đúng cách

Vi sinh vậtxuất hiện ở khắp mọi nơi nên chuyện xâm nhập vào các mặt hàng thủy sản không phải là chuyện gì quá kỳ lạ. Và nếu ở mức giới hạn trong khả năng thì sẽ không nguy hại bởi khi chế biến chỉ cần nấu chín lên là có thể ăn được.




>> Xem thêm các bài viết liên quan ở đây: mua vi sinh xử lý nước thải .


Theo thông tin bộ NN-PTNT cho biết chỉ trong thời gian 9 tháng đầu năm số lượng các lô hàng vi phạm lần lượt là 165 và 78 lô tại một cuộc họp báo mới đây do bộ NN-PTNT tổ chức. Đối với hàng xuất khẩu, theo cảnh báo của các thị trường, 9 tháng đầu năm đã có 181 lô hàng bị cảnh báo về chỉ tiêu kháng sinh cấm sử dụng, kháng sinh hạn chế sử dụng, vi sinh và các cảnh báo khác.

Phóng viên băn khoăn tại sao một số mặt hàng bị trả về do không đạt tiêu chuẩn nước ngoài lại đem về Việt Nam tiêu thụ, Cục trưởng cục quản lý chất lượng Nông Lâm Thủy Sản ông Nguyễn Như Tiệp hàng trả về vẫn có thể sử dụng được không có vấn đề gì về an toàn thực phẩm.

Theo như ông Tiệp nói thì các mặt hàng thủy hải sản nếu bị trả về về vấn đề vi sinh thì chỉ cần luộc lên là có thể ăn được.

Dư luận đang rất hoang mang khi nghe câu nói tôm luộc lên có thể ăn được . Người dân cứ nghĩ cục trưởng nói như vậy là để trấn an tinh thần người dân hoặc cho là cục trưởng thật biết cách nói đùa.

Trao đổi với PV xung quanh vấn đề này, PSG-TS Nguyễn Duy Thịnh (Viện sinh học-Công nghệ thực phẩm - Đại học Bách Khoa Hà Nội), cho biết, vi sinh vật là loại cực kỳ bé nhỏ mà mắt thường của con người không thể nhìn thấy được. Nó Tồn tại ở nhiều thể khuẩn khác nhau như nấm mốc, vi khuẩn, nấm men.

vi sinh vật tồn tại ở rất nhiều nơi trong môi trường sống của chúng ta như: trong không khí, bụi, trên cơ thể con người, thậm chí trong miệng của mỗi người có lượng VSV lớn bằng cả dân số của thế giới. Tuy nhiên, theo ông Thịnh, vi sinh vật được chia làm hai loại gồm: một loại có lợi và một loại có hại.

Đối với loại VSV có lợi mà chúng ta thường thấy là nấm men. Nấm men vẫn thường được người dân dùng để làm tương. Còn với VSV có hại thì rất nhiều như: nấm mốc, vi khuẩn… những loại này xâm nhập vào trong thực phẩm sẽ tồn tại trong đó và sinh ra rất nhiều độc tố, khi ăn vào có thể gây ngộ độc hoặc nặng hơn là chết người.

Ông Thịnh cũng khẳng định, hầu hết các loại thực phẩm đều bị vi sinh vật tấn công. Song, ở mức độ giới hạn cho phép thì bằng mắt thường con người không thể phát hiện được. Còn nếu vượt quá mức cho phép thì con người có thể dễ dàng nhận biết bằng thị giác và khướu giác. Ví như: Thịt lợn ôi, cá ươn, gạo, cà phê… có mùi nấm mốc. Nhìn hoặc ngửi qua là có thể biết được những thực phẩm này đã bị hư hại do VSV có hại tấn công. Theo đó, những loại thực phẩm này không nên ăn bởi chúng có rất nhiều độc tố không tốt cho sức khỏe con người.

Còn về vấn đề một số mặt hàng thủy sản như tôm bị trả về do vấn đề chỉ tiêu vi sinh thì chỉ cần luộc lên là có thể ăn được, ông Nguyễn Duy Thịnh cho rằng điều này hoàn toàn đúng nếu chỉ tiêu vi sinh ở mức giới hạn cho phép.

Đa số các thực phẩm đều bị vi sinh vật tấn công. Song, ở mức nhiều hay ít thì khác nhau. Đối với các vi sinh vật có hại thì khi nấu chín mặc dù VSV sẽ chết nhưng độc tố vẫn còn, với các VSV không nguy hiểm lắm thì khi nấu chín chúng sẽ ko có hại.

Thứ Ba, 17 tháng 11, 2015

Thay đổi diện mạo nông thôn miền núi nhờ khoa học công nghệ


Nền kinh tế ở những vùng nông thôn nghèo tại TP. Đà Nẵng có diện mạo mới từ các chương trình hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển kinh tế-xã hội nông thôn miền núi (NTMN)



Thay đổi nhận thức người dân


Ông Lê Ngọc Sơn, Phó Trưởng phòng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Hoà Vang đưa chúng tôi đến thăm gia đình anh Phạm Dũng (thôn Cẩm Toại Tây, xã Hoà Phong), nhờ 2 dự án chăn nuôi giống chất lượng cao mà gia đình anh đã “đổi đời” .

Từ năm 2011, gia đình anh Dũng triển khai dự án chăn nuôi dê kết hợp trồng cỏ và nuôi thỏ trắng New Zealand. Lúc đó, anh Dũng được huyện hỗ trợ 8 con dê, 50 con thỏ giống, đồng thời thức ăn và giống cỏ ban đầu cũng được hỗ trợ. Sau một năm thử nghiệm, đến năm thứ hai đàn dê và thỏ của gia đình anh Dũng bắt đầu cho thu nhập.

Anh Dũng chia sẻ: “Thịt dê và thỏ New Zealand được thị trường rất chuộng. Dê thì 8 tháng xuất bán một lần, mỗi con bán được từ 3-4 triệu đồng. Thỏ thì mỗi năm cho 2-3 lứa, mỗi lứa khoảng 30 con. Từ đầu năm đến nay gia đình tôi thu được gần 40 triệu đồng từ nuôi dê và gần 20 triệu đồng từ nuôi thỏ”.

Ông Lê Ngọc Sơn giải thích thêm: Chăn nuôi dê kết hợp trồng cỏ và nuôi thỏ trắng New Zealand là 2 dự án khoa học công nghệ (KHCN) cấp Nhà nước, có kinh phí Trung ương hỗ trợ, được triển khai tại Đà Nẵng.

Qua thời gian thực hiện, dự án đã tạo được giống mới, chất lượng cao, thích nghi với điều kiện nuôi tại Thành phố và sinh trưởng, phát triển tốt. Từ đàn dê ban đầu 160 con, qua quá trình nuôi dưỡng, đến nay đã lên khoảng 300 con. Mô hình nuôi thỏ đã cung cấp 1.000 con giống cho 20 hộ, mỗi hộ 50 con để phát triển kinh tế.

Ông Sơn cho hay  “Với một gia đình làm nông, chỉ quanh quẩn với việc trồng lúa và nuôi gà, nuôi heo, thu nhập ít ỏi… thì mô hình kinh tế mới chăn nuôi dê, thỏ chất lượng cao thực sự là đòn bẩy phát triển kinh tế hộ gia đình, nâng cao thu nhập”.

Cùng với việc phát triển kinh tế nông hộ nhờ chăn nuôi, Đà Nẵng còn thử nghiệm và nhân rộng nhiều mô hình ứng dụng KHCN vào cuộc sống.

Chẳng hạn, trong khuôn khổ Chương trình Chuyển giao công nghệ phát triển nông thôn miền núi, Trung tâm Tiết kiệm năng lượng và Tư vấn chuyển giao công nghệ (Sở KH&CN TP. Đà Nẵng) đã triển khai mô hình ứng dụng năng lượng mặt trời tại 24 đơn vị trong huyện Hòa Vang, như Bệnh viện đa khoa huyện, 11 trạm y tế các xã, 11 trường mầm non, Trung tâm Bảo trợ nạn nhân chất độc da cam và trẻ em bất hạnh Hòa Nhơn.

Tại Trạm y tế xã Hòa Nhơn (mỗi tháng tiếp nhận khám, chữa bệnh cho khoảng trên 200 người và có khoảng 20-30 ca sinh), chị Trần Thị Điển, Trạm trưởng Trạm y tế cho biết, với bình nước nóng 200 lít, nhiệt độ nước nóng trong những ngày nắng đạt khoảng 60-80 độ C, đã giúp cho công việc của Trạm thuận lợi hơn, nhất là trong việc tắm rửa cho trẻ sơ sinh, sát trùng dụng cụ, hỗ trợ việc tắm rửa của bệnh nhân đang điều trị.

Đà Nẵng có thời gian nắng gần như quanh năm, do vậy, việc thành công của mô hình ứng dụng năng lượng mặt trời tại huyện Hòa Vang sẽ thúc đẩy nhiều tổ chức, cá nhân sử dụng năng lượng mặt trời vào phục vụ cuộc sống và sản xuất, cắt giảm chi phí năng lượng, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường bền vững.

Đây cũng là một trong những việc làm minh chứng cho việc gắn kết các hoạt động Khoa học công nghệ với nhu cầu thực tế, phát triển cộng đồng và từng bước chuyển biến nhận thức và đời sống vật chất của người dân.

Lan tỏa mạnh mẽ trong khu vực NTMN

Chương trình nông thôn miền núi có tính chất liên ngành, liên vùng, được Bộ KH&CN phối hợp với các địa phương thực hiện thông qua các dự án ứng dụng và chuyển giao công nghệ, đào tạo, tập huấn nghiệp vụ và hoạt động thông tin, tuyên truyền nhằm thúc đẩy ứng dụng tiến bộ KHCN phục vụ phát triển kinh tế-xã hội NTMN.

Ông Lê Quang Nam, Giám đốc Sở KH&CN cho biết, đối với TP. Đà Nẵng, Bộ KH&CN đã hỗ trợ thực hiện 13 dự án, trong đó có 7 dự án thuộc nhóm Trung ương quản lý và 6 dự án thuộc nhóm ủy quyền cho địa phương quản lý. Hiện, 8 dự án đã nghiệm thu và 5 dự án đang triển khai thực hiện. Hầu hết, các dự án đều hiệu quả và có sức lan tỏa mạnh mẽ trong khu vực nông thôn miền núi tại TP. Đà Nẵng.

Có thể nói, thành công bước đầu của các dự án NTMN đã tạo cơ sở hình thành và góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ sinh học cho Thành phố.

Bắt đầu từ dự án xây dựng phòng nuôi cấy mô tế bào phục vụ nhân nhanh một số giống cây đặc thù trên địa bàn Đà Nẵng với sự hỗ trợ kinh phí từ Trung ương, Thành phố đã xây dựng phòng nuôi cấy mô tế bào trực thuộc Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN, từ đó làm tiền đề để xây dựng Trung tâm Công nghệ sinh học TP. Đà Nẵng hiện nay.

Tiếp đến là những dự án, mô hình ứng dụng một số giải pháp an toàn dịch bệnh kết hợp với sử dụng dung dịch điện hoạt hóa anolit để tăng cường vệ sinh thú y; dự án xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất thức ăn bổ sung cho tôm, cá và chế phẩm vi sinh xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản; dự án xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ điện hoạt hóa để làm vệ sinh, khử trùng và khử mùi nhà xưởng, dụng cụ và sản phẩm thịt...

>>>Xem thêm:mua vi sinh xử lý nước thải

Các dự án này đã hỗ trợ cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh phục vụ nông nghiệp, nông thôn và người dân trên địa bàn Thành phố sản xuất các dung dịch khử trùng phục vụ phòng bệnh cho gia súc, gia cầm, các dung dịch vệ sinh nhà xưởng, qua đó cải thiện đáng kể vấn đề môi trường.

Các dự án xây dựng mô hình nuôi bò lai, trồng tre lấy măng tại xã miền núi Hòa Ninh, mô hình trồng thương phẩm các loài hoa có giá trị cao, phát triển chăn nuôi dê thâm canh, sản xuất hàng hóa nấm ăn và nấm dược liệu, nhân giống và sản xuất lan hồ điệp, mô hình chăn nuôi thỏ trắng New Zealand… đã góp phần chuyển đối cơ cấu kinh tế nông nghiệp phù hợp với định hướng của Thành phố, phát triển nông nghiệp đô thị và tăng hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích.

Bên cạnh những kết quả đạt được, thông qua các mô hình trồng trọt, chăn nuôi, các dự án từ chương trình NTMN đã đào tạo kỹ thuật trực tiếp cho các cán bộ thuộc cơ quan chủ trì dự án, nâng cao trình độ kỹ thuật cho cán bộ địa phương và người dân về sản xuất nông nghiệp.

Tại Đà Nẵng, qua 13 dự án nông thôn miền núi đã đào tạo 119 cán bộ kỹ thuật nắm vững quy trình công nghệ và tập huấn cho 3.775 lượt nông dân của địa phương về các kỹ thật chăn nuôi, trồng trọt tiên tiến.

Ông Lê Quang Nam đánh giá, các dự án trong chương trình nông thôn miền núi đã chuyển giao ứng dụng công nghệ và tiến bộ kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp trên địa bàn Thành phố, qua đó nâng cao năng suất, chất lượng nông sản của các địa phương. Thông qua các dự án đã giúp nâng cao trình độ sản xuất của người nông dân, xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho cộng đồng dân cư ở nông thôn.

Với hiệu quả thiết thực đối với các địa phương như vậy, Sở KH&CN TP. Đà Nẵng đã đề xuất lên Bộ KH&CN tiếp tục đề xuất Chính phủ phê duyệt tiếp giai đoạn 3 của chương trình và quan tâm hỗ trợ Thành phố triển khai các dự án trong khuôn khổ của chương trình.

Đồng thời tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho nguồn nhân lực của các tổ chức Khoa học công nghệ, đầu tư nâng cao năng lực cho các đơn vị Trung tâm Tiết kiệm năng lượng và Tư vấn chuyển giao công nghệ, Trung tâm Công nghệ sinh học, và tăng cường liên kết, phối hợp giữa Sở KH&CN với Ủy ban nhân dân các huyện trong công tác quản lý và triển khai hoạt động ứng dụng Khoa học công nghệ tại địa phương.

Thứ Hai, 16 tháng 11, 2015

Ứng dụng vi sinh để giảm thiểu ô nhiễm môi trường


Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bắc Kạn phối hợp cùng Viện Môi trường Nông nghiệp-Viện khoa học Nông nghiệp Việt Nam triển khai dự án xây dựng mô hình xử lý chất thải từ quá trình chế biến tinh bột dong riềng thành thức ăn gia súc và phân bón hữu cơ tại xã Côn Minh, huyện Na Rì (Bắc Kạn) nhằm giảm ô nhiễm môi trường từ các cơ sở chế biến dong riềng.




>> xem thêm vi sinh xử lý nước thải


Dự án nhằm xây dựng các mô hình xử lý nguồn nước thải trong quá trình chế biến dong riềng đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra môi trường, mô hình sản xuất và sử dụng phân hữu cơ vi sinh từ chất thải của quá trình chế biến tinh bột dong riềng để làm phân bón cho cây trồng, mô hình chế biến và sử dụng bã dong riềng để làm thức ăn bổ sung cho chăn nuôi.


Sau hai năm thực hiện, dự án đã đạt được những kết quả rất tốt. Dự án đã điều tra hiện trạng sản xuất nông nghiệp cũng như sản xuất dong riềng tại thôn Bản Lài, xã Côn Minh, huyện Na Rì. Xây dựng được các chuyên đề, gồm tổng quan về các giải pháp sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý làm phân bón hữu cơ vi sinh và dùng làm thức ăn cho chăn nuôi, tổng quan về các giải pháp sử dụng công nghệ sinh hoá dùng để xử lý nước thải của các cơ sở sản xuất tinh bột dong riềng trong nước và trên thế giới, chuyên đề đánh giá kết quả xử lý bã thải từ quá trình sản xuất tinh bột dong riềng theo hướng thân thiện với môi trường.


Các các quy trình để các cơ sở sản xuất chế biến dong riềng áp dụng như: về chế biến bã dong riềng làm thức ăn chăn nuôi; chế biến bã dong riềng thành phân bón hữu cơ vi sinh; xử lý nước thải từ các cơ sở sản xuất dong riềng quy mô nông hộ gia đình cũng đã được hoàn thiện.



Dự án đã xây dựng 3 mô hình gồm xử lý bã thải dong riềng làm thức ăn cho chăn nuôi, đã chế biến được 2 tấn thức ăn phục vụ chăn nuôi từ bã dong riềng bằng công nghệ chế phẩm vi sinh và công nghệ ủ chua; xử lý bã dong riềng làm phân bón vi sinh với số lượng 10 tấn phân đã bón thử nghiệm cây lúa nước vụ mùa năm 2012 và vụ xuân năm 2013; xử lý nước thải công suất 90 m3/ngày đảm bảo vệ sinh môi trường khi thải ra tự nhiên. Nhìn chung các mô hình phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh, giảm được chi phí đầu tư cho các cơ sở chế biến dong riềng.



Chủ nhiệm Hợp tác xã Miến dong Côn Minh, huyện Na Rì – ông Nông Văn Chính cho biết, trước đây, việc đảm bảo nước thải ra ruộng, ra suối của các hộ sản xuất miến dong còn khó khăn do chưa được hướng dẫn. Từ khi thực hiện dự án này rất thuận lợi, nước thải ra môi trường của các cơ sở khá trong, theo hướng dẫn là đảm bảo. Hợp tác xã đã xây dựng 3 bể lắng để lắng các chất cạn bã, độc hại, làm cho nước trong sau mới thải ra môi trường, còn bã thải làm phân bón rất tốt cho cây trồng.



Đi đôi với việc xây dựng các mô hình, dự án tổ chức tập huấn, hướng dẫn, chuyển giao công nghệ cho 150 lượt người dân về tác hại của ô nhiễm môi trường, các bước chế biến bã dong riềng, kỹ thuật xử lý nước thải, xây dựng các bể lọc... tổ chức tập huấn, hướng dẫn, chuyển giao công nghệ cho 150 lượt người dân về tác hại của ô nhiễm môi trường, các bước chế biến bã dong riềng, kỹ thuật xử lý nước thải, xây dựng các bể lọc...cũng được chú trọng.}Người dân sau khi được tập huấn đã nâng cao nhận thức, đồng thời ứng dụng các công nghệ vào sản xuất và chế biến góp phần tăng hiệu quả kinh tế, bảo vệ môi trường.



Ông Lê Văn Thế, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bắc Kạn cho biết thời gian tới, đơn vị tiếp tục mở rộng dự án xây dựng hệ thống xử lý nước thải trong sản xuất và chế biến tinh bột dong riềng nhằm đảm bảo môi trường và giúp người dân tận dụng được bã củ dong thải ra để làm phân bón và thức ăn chăn nuôi. Đồng thời nhân rộng mô hình xử lý nước, chất thải ra các vùng khác trong tỉnh.



Dong riềng là cây dễ trồng, thích nghi với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, tập quán canh tác của người dân vùng cao nên những năm gần đây tỉnh Bắc Kạn đã đẩy mạnh việc mở rộng diện tích và sản xuất, chế biến sản phẩm củ dong riềng.



Hiện nay, trên địa bàn toàn tỉnh đã có hơn 100 doanh nghiệp, hợp tác xã và các hộ gia đình sản xuất, chế biến củ dong riềng tạo ra các sản phẩm hàng hóa nâng cao giá trị kinh tế. Tuy nhiên, các cơ sở sản xuất, chế biến củ dong riềng mới chỉ chú trọng vào năng suất, lợi nhuận về kinh tế mà chưa chú trọng công tác bảo vệ môi trường.

Sử dụng men tiêu hóa bậy bạ có thể làm hại con nhỏ



Trẻ nhỏ có sức khỏe yếu nên hay bệnh tật. Khi bị bệnh, trẻ thường kém ăn nên được bố mẹ cho dùng men tiêu hóa để làm cho trẻ ăn ngon hơn.



Trẻ nhỏ có sức đề kháng kém nên hay đau ốm. Khi bị bệnh, trẻ thường kém ăn nên được cha mẹ cho dùng men tiêu hóa để kích thích ăn ngon hơn. Tuy nhiên, việc lạm dụng men tiêu hóa để lại những hậu quả khôn lường cho sức khỏe của trẻ ngay từ thuở nằm nôi.

Các men hỗ trợ tiêu hóa bán trên thị trường hiện nay thường được gọi chung một từ là men tiêu hóa. Khi ra hiệu thuốc mua, mọi người thường nói với nhân viên quầy thuốc: Bán cho tôi gói men vi sinh, mà không cần biết loại men ấy dùng có đúng người, đúng bệnh không. Một trong những mối nguy hại cho sức khỏe tiềm ẩn đó chỉnh là các nhân viên khi nghe qua triệu chứng rồi kê toa như bác sĩ. Trong đó việc cho trẻ nhỏ lạm dụng men tiêu hóa là một lời cảnh báo.

Việc cho trẻ dùng bừa men tiêu hóa khiến tình trạng rối loạn tiêu hóa càng nặng hơn.

Các chế phẩm hỗ trợ tiêu hóa được gọi chung bằng một từ là: men tiêu hóa, thực chất được chia thành hai loại là men vi sinh và men tiêu hóa, có công dụng, đối tượng sử dụng khác nhau. Vì vậy trước khi cho trẻ uống, cần phân biệt rõ hai loại men này và khi nào con cần dùng để phát huy tối đa hiệu quả và tránh hậu quả đáng tiếc.


Để an toàn và hiệu quả khi dùng thuốc, mọi người cần có thói quen chỉ dùng thuốc khi có chỉ định của thầy thuốc, dù đó là thuốc chữa bệnh hay chế phẩm hỗ trợ tiêu hóa, thực phẩm chức năng... vì mọi hoạt chất không phải do cơ thể tiết ra đều có thể gây các phản ứng phụ.

Men vi sinh: Men vi sinh, còn gọi là probiotic (một số loại probiotic phổ biến: khuẩn Bifidobacterium, khuẩn Lactobacillus) - là chế phẩm vi sinh chứa các loại vi khuẩn có lợi, được đưa vào ruột để bù đắp, lập lại sự cân bằng vi khuẩn đường ruột. Men vi sinh được chỉ định với các trường hợp loạn khuẩn ruột, biểu hiện ở chứng đi ngoài phân sống, tiêu chảy, khó tiêu, trướng bụng, rối loạn tiêu hóa. Việc bổ sung men vi sinh nhằm nâng cao sức đề kháng cho đường ruột, nâng cao chức năng tiêu hóa.

Men tiêu hóa: Là các loại men (enzym) do chính các tuyến trong cơ thể tiết ra, có tác dụng để tiêu hóa và hấp thu thức ăn, ví dụ tuyến nước bọt bài tiết men ptyalin (còn gọi anpha-amylase) có tác dụng phân giải tinh bột đã nấu chín thành đường maltoza. Dạ dày bài tiết ra axit clohydric (HCl) và các men pepsin, lipase. Quan trọng nhất là các men được bài tiết từ tụy tạng. Dịch tụy chứa đầy đủ các men tiêu hóa chất bột, chất đạm, chất béo. Men tiêu hóa tinh bột của tụy cũng là anpha-amylase, có cấu trúc giống men ptyalin của nước bọt nhưng tác dụng mạnh hơn nhiều lần. Men tiêu hóa chất đạm của tụy bao gồm: trypsin, chymotrypsin, arboxypolypeptidase... Đó là những xúc tác sinh học cần thiết cho hầu hết các phản ứng chuyển hóa thức ăn xảy ra trong cơ thể. Men tiêu hóa chỉ được bác sĩ kê đơn khi xác định trẻ thiếu men tiêu hóa, hoặc muốn tăng cường thêm khả năng tiêu hóa thức ăn ở trẻ kém hấp thu, biếng ăn. Trẻ mới ốm dậy, thể lực yếu, hệ tiêu hóa chưa tiết men đầy đủ cũng là đối tượng nên dùng để giúp cơ thể hồi phục nhanh.

Việc nhầm lẫn giữa hai loại thuốc trên, hoặc có khi người sử dụng không biết mình đang cho con dùng loại gì, chỉ biết gọi chung là men tiêu hóa, sẽ khiến cho tình trạng tiêu hóa của trẻ không được cải thiện, thậm chí ngày càng tồi tệ hơn. Không ít trường hợp vì thấy con mệt mỏi, biếng ăn, nhiều người đã tự ý mua men tiêu hóa cho con uống. Con được dùng men trong một thời gian dài mà tình trạng biếng ăn không được cải thiện, tình trạng rối loạn tiêu hóa của trẻ nặng thêm. Đưa con đi khám tiêu hóa được bác sĩ giải thích mới té ngửa mình đã vô tình hại con. Bản thân cơ thể con người đều có thể sản xuất đủ men tiêu hóa để tiêu hóa thức ăn. Nếu cha mẹ cho con uống men tiêu hóa dài ngày sẽ khiến cơ thể lười biếng không sản sinh ra men tiêu hóa, lâu dần sẽ giảm công suất và trở nên trì trệ. Trẻ có nguy cơ cơ thể bé sẽ phải phụ thuộc suốt đời vào men tiêu hóa được uống vào. Chỉ nên cho bé dùng men tiêu hóa 7-10 ngày, nếu dùng kéo dài sẽ gây tác dụng ngược do lượng men tiêu hóa được cung cấp nhiều từ bên ngoài sẽ ức chế các tuyến tiết men tiêu hóa nội sinh trong cơ thể. Bên cạnh đó, nếu dùng thuốc này như một thói quen, cơ thể thừa men thì tụy sẽ tự động ngừng tiết men tiêu hóa, dẫn đến suy tụy, thiểu năng tuyến tụy, cơ thể không được bảo vệ sẽ dễ nhiễm khuẩn. Điều này giải thích tại sao có người cho con dùng men tiêu hóa trong cả tháng trời mà con ngày càng suy nhược và yếu ớt hơn. Chỉ cho trẻ sử dụng men tiêu hóa khi các tuyến tiêu hóa bị tổn thương hay khi bị giảm bài tiết gây thiếu men tiêu hóa trong cơ thể như trong một số trường hợp: suy dinh dưỡng nặng, u xơ nang tuyến tụy, trẻ mới ốm dậy hoặc mới trải qua phẫu thuật... Đặc biệt cần hạn chế tối đa cho trẻ dưới 6 tháng tuổi uống men tiêu hóa vì ở độ tuổi này hệ tiêu hóa của trẻ chưa ổn định, dễ gây ảnh hưởng đến đường tiêu hóa của trẻ về sau.

Thứ Năm, 12 tháng 11, 2015

Tây Nguyên đối mặt với hạn hán


Tây Nguyên có nguy cơ đối mặt với cơn “đại hạn” khốc liệt nhất trong hàng chục năm qua, đây là hệ quả của biến đổi khí hậu gây ra. Năm nay mùa mưa kết thúc sớm và lượng mưa ít khiến lượng nước tại các hồ chứa, sông suối tại Tây Nguyên sụt giảm nghiêm trọng.



Sông hồ “khát” nước
Hiện tượng El Nino tiếp tục ảnh hưởng đến nước ta, khả năng đạt cường độ mạnh kỷ lục và kéo dài đến hết vụ Đông Xuân 2015 - 2016 là dự báo của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai tại hội nghị trực tuyến tổ chức tại Hà Nội. Theo nhận định của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thuỷ văn Trung ương, từ nay đến tháng 2/2016, lưu lượng dòng chảy trên các sông suối ở Tây Nguyên sẽ giảm dần và có khả năng thiếu hụt từ 20 - 40% so với trung bình nhiều năm. Do vậy, tình trạng khô hạn, thiếu nước có khả năng xảy ra từ các tháng cuối năm nay.

Tính đến hết tháng 10/2015, lượng mưa trong năm chỉ đạt từ 65 - 75% so với trung bình nhiều năm là kết quả thống kê của Trung tâm Khí tượng thủy văn tỉnh Đắk Nông. Tiêu biểu như: huyện Cư Jút chỉ đạt 62,1%, huyện Đắk Song chỉ đạt 51,7%, huyện Đắk Mil đạt 76,7%, thị xã Gia Nghĩa đạt 73,9%... Lượng mưa ít đã làm cho mực nước tại các hồ chứa, sông suối tại tỉnh giảm từ 20 - 40% so với mọi năm, hiện phần lớn các hồ chứa vùng phía Bắc và Đông Bắc tỉnh thuộc các huyện Đắk Mil, Cư Jút, Krông Nô đều có mực nước thấp hơn so với ngưỡng tràn từ 3 - 6m.

Phó Giám đốc Công ty TNHH MTV Quản lý công trình thuỷ lợi Đắk Lắk -  ông Trần Hoan cho biết: hiện các hồ vừa và nhỏ cơ bản đã tích đầy nước, riêng các hồ lớn chỉ tích được từ 40 - 70% dung tích thiết kế. Hồ Ea Kao (TP. Buôn Ma Thuột) cung cấp nước tưới cho khoảng 600ha lúa và 1.000ha cà phê trên địa bàn nhưng hiện đang thiếu khoảng 3 triệu m3 nước, chỉ đáp ứng khoảng 2/3 diện tích cần cấp nước. Còn hồ Buôn Triết (xã Buôn Triết, huyện Lắk) vốn cung cấp nước tưới cho hơn 2.000ha (chủ yếu là lúa) nhưng chỉ chứa được hơn 50%, thiếu khoảng 12 triệu m3 nước và hiện chỉ có khả năng phục vụ nước tưới cho khoảng 500ha. “Trong tổng số 432 hồ chứa công ty đang quản lý thì chỉ có 181 hồ chứa đủ nước, 193 hồ có chứa từ 50 - 80% dung tích trữ, 46 hồ chỉ đạt dưới 50% và 12 hồ ở mực nước chết” - ông Hoan cho hay.

Kết quả kiểm tra của Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Kon Tum cũng cho thấy 15 hồ chứa lớn và vừa trên địa bàn mực nước đều đang ở mức thấp. Các hồ lớn như Đắk Chà Mòn (xã Đắk BLà, TP. Kon Tum), hồ Ia Ban Thượng (xã Hòa Bình, TP. Kon Tum) hồ Đắk Yên, Đắk Ui (huyện Đắk Hà)… thiếu khoảng 1m nước. Tại Gia Lai một số hồ lớn như Ia Mlá (huyện Krông Pa) hụt gần 5m nước, hồ Hà Ra Nam (Mang Yang) thiếu 3,38m nước… so với cùng kỳ năm ngoái.

Nguy cơ hạn trên diện rộng



Toàn tỉnh Đắk Lắk có hơn 61.467 ha cây trồng bị hạn (trong đó có 4.374ha mất trắng) trong vụ Đông Xuân 2014 - 2015 vừa qua. Ngoài số diện tích trên, toàn tỉnh còn có gần 19.000 hộ dân thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng do giếng đào khô cạn, ước tính tổng thiệt hại trên 2.000 tỷ đồng. Tình trạng khô hạn cũng diễn biến trên diện rộng tại Tây Nguyên, gây thiệt hại khoảng 700 tỷ đồng tại Đắk Nông và hàng trăm tỷ đồng tại Gia Lai, Kon Tum và Lâm Đồng.

Để đối mặt với mùa khô được đánh giá là khốc liệt nhất trong vòng 60 năm qua, ngành nông nghiệp các tỉnh khác ở Tây Nguyên đã chủ động rà soát, đánh giá để có kế hoạch gieo trồng hợp lý và chuẩn bị phương án chống hạn ngay từ thời điểm này. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh cho biết hiện các địa phương đã báo cáo kế hoạch sản xuất cây trồng vụ Đông xuân 2015 - 2016 nhưng các sở phải tiến hành rà soát lại để có kế hoạch gieo trồng phù hợp. Tại những vùng bấp bênh về nguồn nước và thường xuyên xảy ra khô hạn trong những năm gần đây, các Sở ngành thường xuyên tổ chức tuyên truyền, vận động người dân nên chuyển đổi cây trồng cho phù hợp, sử dụng nước tiết kiệm, tổ chức nạo vét kênh mương…

Về lâu dài, ngành nông nghiệp các tỉnh Tây Nguyên đã lên phương án tiến hành điều tra, đánh giá thực trạng công trình thuỷ lợi để quy hoạch phát triển, quản lý, khai thác tài nguyên đất, nước phù hợp với bố trí cơ cấu cây trồng theo hướng bền vững; đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi trọng điểm, tăng mở rộng và kiên cố hoá hệ thống kênh mương; tăng cường trồng rừng đầu nguồn… Nhưng theo ông Huỳnh Quốc Thích - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đắk Lắk, các phương án, kế hoạch phòng chống hạn những năm gần đây rất được quan tâm nhưng chưa mang lại kết quả mong muốn. Do thiếu kinh phí, việc triển khai các phương án chống hạn được phê duyệt, nhất là đầu tư cho các công trình thuỷ lợi vẫn hết sức ì ạch và bị động.

Chủ Nhật, 1 tháng 11, 2015

Tăng cường công tác chống hạn hán ở Ninh Thuận


Tại Hội nghị trực tuyến ứng phó với hạn hán, xâm nhập mặn năm 2015-2016 do ảnh hưởng của hiện tượng EL NINO, Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận cho biết: Ninh Thuận là tỉnh có thời tiết khô hạn nhất cả nước; hàng năm, tình hình hạn hán, thiếu nước sinh hoạt cho người dân, nước uống cho gia súc và nước phục vụ sản xuất thường xuyên xảy ra.



Tình hình hạn hán ngày càng gay gắt và diễn ra trên diện rộng, đặc biệt là từ cuối năm 2014, đây là đợt hạn hán khốc liệt nhất trong 10 năm trở lại đây trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.



Từ tháng 3 đến tháng 4/2015  tổng lượng nước tích tại 20 hồ chứa trên địa bàn tỉnh chỉ đạt khoảng 8% dung tích thiết kế (tổng dung tích thiết kế 20 hồ chứa 192,21 triệu m3). Hạn hán gay gắt kéo dài đã gây ra thiếu nước sinh hoạt cho nhân dân, gia súc chết do thiếu thức ăn, nước uống, nhiều diện tích cây trồng bị thiệt hại, một số diện tích phải dừng sản, người dân không sản xuất bị thiếu đói.




Từ đầu năm 2015, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Chỉ thị về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống hạn trên địa bàn tỉnh; xác định công tác chống hạn là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu cùng với việc chỉ đạo Đại hội đảng các cấp, với mục tiêu cao nhất đó là: Không để dân đói, không để dân khát, không để gia súc chết, không để phát sinh dịch bệnh, chủ động ứng phó với hạn hán.




Theo dự báo của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương, do chịu tác động của hiện tượng El-Nino, trong mùa khô 2015-2016, dòng chảy trên các sông suối ở Trung Bộ sẽ giảm dần và có khả năng thiếu hụt so với TBNN phổ biến từ 20-40%, một số sông ở khu vực Nam Trung Bộ thiếu hụt trên 60%; tình trạng khô hạn, thiếu nước có khả năng xảy ra sớm hơn nhiều so với TBNN. Tính đến ngày 29/10/2015, lượng nước tích tại 20 hồ chứa trên địa bàn tỉnh chỉ còn 51,91 triệu m3/192,21 triệu m3; lượng nước hồ Đơn Dương 137,56/165,00 triệu m3, thấp hơn mực nước cùng kỳ 6,6 triệu m3.




Trong thời gian tới tỉnh Ninh Thuận tiếp tục tăng cường công tác chống hạn, trong đó tập trung một số nội dung: Duy trì hoạt động Ban chỉ đạo chống hạn từ tỉnh đến cơ sở; Phối hợp chặt chẽ với Nhà máy Thủy điện Đa Nhim duy trì mức xả nước theo từng thời kỳ; Xây dựng kế hoạch sản xuất vụ Đông Xuân năm 2015-2016; Tổ chức nạo vét kênh mương định kỳ; Chỉ đạo các ngành, địa phương tập trung triển khai và giải ngân kinh phí chống hạn; Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đẩy nhanh tiến độ thi công Hệ thống thủy lợi Tân Mỹ và các công trình trọng điểm phục vụ công tác chống hạn lâu dài, bền vững.




Tại Hội nghị Đồng chí Lưu Xuân Vĩnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã có kiến nghị đề xuất: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các bộ, ngành Trung ương hỗ trợ, giúp đỡ hiệu quả để cùng với tỉnh giải quyết cho được bài toán về nước cho tỉnh luôn luôn khô hạn như Ninh Thuận. Vấn đề đặt ra không chỉ là đầu tư hồ, đập mà quan trọng hơn là kết nối, điều tiết, phân bổ, quản lý, sử dụng nguồn nước không chỉ trong phạm vi tỉnh mà là mang tính chất vùng và thậm chí là toàn quốc.